Kinh tế Đế_quốc_La_Mã

Moses Finley là người đề xướng chính cho quan điểm quan điểm rằng nền kinh tế La Mã là "kém phát triển và chưa hoàn thiện", và nó mang đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp, với các trung tâm đô thị tiêu thụ nhiều hơn so với khả năng sản xuất của chúng trong điều kiện về thương mại và công nghiệp; các nghệ nhân có địa vị thấp, công nghệ chậm phát triển; và "thiếu hợp lý về kinh tế." [236] Những quan điểm hiện tại thì lại phức tạp hơn. Những cuộc chinh phục lãnh thổ đã cho phép tiến hành một quá trình tái tổ chức quy mô lớn việc sử dụng đất mà tạo ra thặng dư nông nghiệp và sự chuyên môn hóa, đặc biệt là ở phía bắc châu Phi.[237] Một số thành phố được biết đến với các ngành công nghiệp cụ thể hoặc hoạt động thương mại, và quy mô xây dựng trong các khu vực đô thị đã cho thấy ngàng công nghiệp xây dựng đã đóng một vai trò quan trọng [237] Những cuộc giấy cói đã bảo tồn các phương pháp kế toán phức tạp cho thấy các yếu tố của chủ nghĩa duy lý kinh tế,[238] và cũng đã có sự lưu hành tiền tệ ở mức độ cao trong đế quốc[239] Mặc dù các phương tiện thông tin liên lạc và giao thông bị hạn chế vào thời cổ đại, việc vận chuyển hàng hóa vào thế kỷ 1 và 2 đã trải dài một cách rộng khắp, và các tuyến đường thương mại kết nối các nền kinh tế trong khu vực.[240] Những hợp đồng tiếp tế cho quân đội, mà vốn đóng quân ở tất cả các nơi trong đế quốc, đã thu hút các thương nhân địa phương ở gần các căn cứ (Castrum), trên địa bàn tỉnh, và giữa các tỉnh.[241] Đế quốc có lẽ được đánh giá tốt nhất ở việc có một mạng lưới các nền kinh tế khu vực, dựa trên một hình thức của "chủ nghĩa tư bản chính trị" trong đó nhà nước giám sát và quy định các hoạt động thương mại để đảm bảo nguồn thu của nó[242] Tăng trưởng kinh tế của đế quốc mặc dù không thể so sánh với các nền kinh tế hiện đại, nhưng nó đã lớn hơn so với hầu hết các xã hội khác trước khi tiến hành công nghiệp hóa.[238]

Tiền tệ và ngân hàng

Thời kì đầu đế quốc đã có sự lưu hành tiền tệ đạt đến một mức độ gần như phổ quát, với ý nghĩa của việc sử dụng tiền như một cách để thể hiện giá cả và các khoản nợ.[243] Đồng sestertius (số nhiều sestertii, tiếng Anh "sesterces", ký hiệu là HS) là đơn vị cơ bản về mặt giá trị thanh toán vào thế kỷ thứ 4,[244] mặc dù đồng denarius bạc, trị giá bốn sesterces, cũng đã được sử dụng trong việc thanh toán vào triều đại Severus.[245] Đồng tiền có giá trị nhỏ nhất thường được lưu hành là đồng as (số nhiều asses), bằng một phần tư đồng sestertius.[246] Vàng nén và thỏi dường như không được tính là pecunia, "tiền", và chỉ được sử dụng trên các vùng biên giới để giao dịch kinh doanh hoặc mua bất động sản. Người La Mã vào thế kỷ 1 và 2 tính số lượng tiền, chứ không phải cân chúng -một dấu hiệu cho thấy đồng tiền được định giá ngay trên mặt của nó và không phải dựa vào hàm lượng kim loại của đồng tiền. Khuynh hướng đối với tiền định danh này cuối cùng dẫn đến làm giảm giá trị của tiền xu La Mã, với những hậu quả để lại vào thời kì cuối của đế quốc.[247] Sự tiêu chuẩn hóa đối với tiền trong toàn đế quốc đã thúc đẩy thương mại và hội nhập thị trường [248] Với số lượng lớn tiền xu kim loại trong lưu thông đã làm tăng nguồn cung tiền cho các giao dịch hoặc tiết kiệm.[249]

Roma không có ngân hàng trung ương, và các quy định của hệ thống ngân hàng là tối thiểu. Ngân hàng vào thời cổ đại thường tiến hành dự trữ với số lượng nhỏ. Một ngân hàng điển hình thường có số vốn hạn chế, và thường chỉ có một người chủ, mặc dù một ngân hàng có thể có nhiều từ 6 tới 15 người chủ. Seneca thừa nhận rằng bất cứ ai có liên quan đến thương mại đều cần phải tiếp cận nguồn tín dụng.[250]

Một người chủ ngân hàng gửi tiền chuyên nghiệp (argentarius, coactor argentarius, hoặc sau này là nummularius) nhận và giữ những khoản tiền gửi trong một thời hạn nhất định hoặc không thời hạn và cho bên thứ ba vay tiền.[251] Tầng lớp nguyên lão đã tham gia rất nhiều vào việc cho tư nhân vay, cả các chủ nợ và khách hàng vay, cho vay từ tài sản cá nhân của họ trên cơ sở các mối quan hệ xã hội.[252] Chủ sở hữu của một món nợ có thể sử dụng nó như một phương tiện thanh toán bằng cách chuyển nó cho một bên khác, không dùng tiền mặt trao tay. Mặc dù đôi khi người ta cho rằng La Mã cổ đại thiếu "giấy" hoặc giao dịch tài liệu, các hệ thống của các ngân hàng trên khắp đế quốc cũng cho phép trao đổi một khoản tiền rất lớn mà không có sự vận chuyển tiền tự nhiên, một phần vì những rủi ro của việc di chuyển số lượng lớn tiền mặt, đặc biệt là bằng đường biển. Chỉ có một vụ thiếu tín dụng nghiêm trọng được biết đến và đã xảy ra vào đầu thời đế quốc, một cuộc khủng hoảng tín dụng vào năm 33 CN mà khiến cho một số nguyên lão gặp phải rủi ro, chính quyền trung ương đã giải cứu thị trường thông qua một khoản vay 100 triệu HS được hoàng đế Tiberius thực hiện vào ngành ngân hàng (Mensae).[253] Nói chung, số vốn khả dụng vượt quá số lượng cần thiết cho khách hàng vay.[254] Bản thân chính quyền trung ương không vay tiền, và cũng không có nợ công để cần bù đắp cho thâm hụt ngân sách từ dự trữ tiền mặt.[255]

Các vị hoàng đế của triều đại Antoninus và Severus về mặt tổng thể đều đã làm mất giá trị đồng tiền, đặc biệt là đồng denarius, dưới áp lực của việc biên chế quân đội.[256] Lạm phát đột ngột dưới triều đại Commodus đã gây tổn hại đối với thị trường tín dụng.[254] Vào giữa những năm 200, nguồn cung tiền đồng giảm mạnh [257] Tình cảnh của cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba- chẳng hạn như việc giảm sút thương mại đường dài, hoạt động khai thác mỏ bị gián đoạn, và việc vận chuyển tiền đúc vàng ra bên ngoài đế quốc bởi những kẻ thù xâm lược- đã làm suy giảm mạnh nguồn cung tiền và ngành ngân hàng cho đến năm 300[258] Mặc dù tiền xu La Mã từ lâu đã là tiền định danh hoặc tiền tệ tín dụng, những lo ngại kinh tế chung đã lên đến đỉnh điểm dưới triều đại Aurelianus, và giới ngân hàng mất niềm tin vào đồng tiền hợp pháp của chính quyền trung ương. Mặc dù Diocletianus sau này giới thiệu đồng solidus vàng và những cải cách tiền tệ, thị trường tín dụng của đế quốc sẽ không bao giờ phục hồi mạnh mẽ lại như nó trước đây.[254]

Khai mỏ và luyện kim

Cảnh quan là kết quả của kỹ thuật khai mỏ ruina montium tại Las Médulas, Hispania, một trong các mỏ vàng quan trọng nhất tại Đế quốc La Mã.

Các khu vực khai thác khoáng sản chính của đế quốc là Tây Ban Nha (vàng, bạc, đồng, thiếc, chì); Gaul (vàng, bạc, sắt), Anh (chủ yếu là sắt, chì, thiếc), các tỉnh Danube (vàng, sắt); Macedonia và Thrace (vàng, bạc) và Tiểu Á (vàng, bạc, sắt, thiếc). Việc tập trung khai mỏ trên quy mô lớn - trong lòng đất và bằng các phương tiện khai thác lộ thiên và dưới lòng đất - đã diễn ra từ dưới triều đại của Augustus cho đến đầu thế kỷ thứ 3, khi sự bất ổn của đế quốc đã gián đoạn quá trình khai thác. Ví dụ như các mỏ vàng của Dacia đã có thể không còn được người La Mã khai thác sau khi tỉnh này bị từ bỏ vào năm 271. Khai thác mỏ dường như đã khôi phục lại được một phần trong suốt thế kỷ thứ 4.[259]

Khai thác thủy lực, mà được Pliny gọi là Ruina montium ("hủy hoại những ngọn núi"), đã cho phép khai thác các kim loại thường và kim loại quý trên quy mô công nghiệp nguyên thủy.[260] Tổng sản lượng sắt hàng năm ước tính khoảng 82.500 tấn[261] sản lượng đồng được sản xuất với tốc độ hàng năm là 15.000 tấn,[262] và chì là 80.000 tấn,[262] những cấp độ sản xuất chưa từng có cho đến cuộc cách mạng công nghiệp;[263] Chỉ riêng Tây Ban Nha đã chiếm 40 phần trăm sản lượng chì thế giới[264] Sản lượng chì cao là do nó là một sản phẩm phụ của quá trình khai thác bạc quy mô lớn đạt 200 tấn mỗi năm.[265] Vào giai đoạn cao điểm vào khoảng giữa thế kỷ thứ 2, kho bạc La Mã được ước tính có khoảng 10.000 tấn, lớn hơn từ 5 tới 10 lần hơn toàn bộ lượng bạc của châu Âu thời trung cổ và các Caliphate vào khoảng 800 CN .[266] Như một dấu hiệu cho quy mô sản xuất kim loại của người La Mã, ô nhiễm chì trong các tảng băng ở Greenland tăng gấp bốn lần so với mức tiền sử của nó trong thời kỳ đế quốc, và sau đó tiếp tục giảm.[267]

Giao thông và vận chuyển

Xem thêm: Đường La Mã

xxxxnhỏ|upright=1.5|Phù điêu Gaul-La Mã mô tả một chiếc thuyền sông vận chuyển các thùng rượu, một phát minh của người Gaul được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ thứ 2; ở trên, rượu được trữ trong các vò hai quai truyền thống, một số được bảo vệ trong đồ đan bằng liễu gai[268]]]Đế quốc La Mã hoàn toàn bao quanh Địa Trung Hải, và họ gọi nó là "biển của chúng tôi" (Mare Nostrum).[269] Tàu thuyền của người La Mã đã đi lại khắp Địa Trung Hải cũng như các con sông chính của Đế quốc, trong đó có sông Guadalquivir, Ebro, Rhône, Rhine, sông Tibersông Nile.[270] Việc vận chuyển bằng đường biển thường được chọn nếu có thể, và vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ là rất khó khăn.[271] Phương tiện đi lại, bánh xe, và tàu thuyền cho thấy sự tồn tại của một số lượng lớn các thợ mộc lành nghề.[272]

Vận tải bằng đường bộ thì sử dụng hệ thống các con đường La Mã tiên tiến. Các loại thuế bằng hiện vật được các cộng đồng đóng bao gồm việc cung cấp lương thực cho các nhân viên, động vật, hoặc phương tiện cho các cursus publicus, hệ thống bưu điện nhà nước và dịch vụ vận tải đã được Augustus thành lập[231] Các trạm ngựa nằm dọc theo những con đường mỗi 7-12 dặm La Mã, và có xu hướng phát triển thành một làng hoặc trạm buôn bán.[273] Một mansio (số nhiều mansiones) là một trạm dịch vụ tư nhân đặc quyền của triều đình đế quốc dành cho cursus publicus. Các nhân viên hỗ trợ tại một cơ sở như vậy bao gồm người dắt la, thư ký, thợ rèn, xe ngựa, một thầy thuốc thú y, một vài quân cảnh và người đưa thư. Khoảng cách giữa mansiones được xác định bằng quãng đường một chiếc xe ngựa có thể đi di chuyển trong một ngày.[273] La là loài động vật thường được sử dụng cho xe kéo, và nó có thể đi được khoảng 4 dặm mỗi giờ.[274] Như một ví dụ về tốc độ thông tin liên lạc, một người đưa tin ít nhất phải mất chín ngày để đi đến Rome từ Mainz thuộc tỉnh Thượng Germania, ngay cả khi đang có một vấn đề cấp bách[275] Ngoài các mansiones, một số quán rượu cũng cung cấp chỗ ở cũng như ăn uống, một nhãn được ghi lại trong một lần lưu lại cho thấy chi phí cho rượu vang, bánh mì, thức ăn cho con la, và chi phí của một gái mại dâm.[276]

Thương mại và hàng hóa

Các tỉnh La Mã buôn bán giữa chúng với nhau, nhưng thương mại còn mở rộng ra bên ngoài biên giới tới các khu vực xa xôi như Trung Quốc và Ấn Độ.[277] Các mặt hàng chính là ngũ cốc.[278] Ngoài ra còn buôn bán mặt hàng khác như dầu ô liu, các loại thực phẩm, garum (nước mắm), nô lệ, quặng và đồ vật kim loại, sợi và dệt may, gỗ, gốm, đồ thủy tinh, đá cẩm thạch, giấy cói, gia vị và dược liệu, ngà voi, ngọc trai và đá quý.[279]

Lao động và việc làm

Người làm công trong một cửa hàng sản xuất vải, một bức họa trong fullonica của Veranius Hypsaeus tại Pompeii

Những dòng chữ khắc ghi lại 268 ngành nghề khác nhau trong thành phố Rome, và 85 ở Pompeii.[280] Hiệp hội nghề nghiệp hoặc các Hội thương gia (collegia) được chứng thực cho một loạt các ngành nghề, trong đó có ngư dân (piscatores), người buôn muối (salinatores), người buôn bán dầu ô liu (olivarii), người làm trò mua vui (scaenici), người buôn bán gia súc (pecuarii), thợ kim hoàn (aurifices), người đánh xe (asinarii hoặc muliones), và thợ đá (lapidarii) [281] Đôi khi có những nghề khá đặc biệt: một collegium tại Rome bị hạn chế nghiêm ngặt đối với thợ thủ công làm việc với ngà voi và gỗ cam quýt.[282]

Các công việc được thực hiện bởi những người nô lệ rơi vào năm loại chung: nội trợ, trên các văn bia ghi lại ít nhất 55 công việc khác nhau trong gia đình, phục vụ hoàng gia hoặc công cộng; hàng thủ công đô thị và dịch vụ, nông nghiệp và khai thác khoáng sản[283] Tù nhân cung cấp phần lớn lao động trong các mỏ hoặc mỏ đá, nơi mà điều kiện làm việc nổi tiếng là tàn bạo.[284] Trong thực tế, có rất ít sự phân công lao động giữa nô lệ và người tự do. Một số lượng lớn những người lao động thông thường được sử dụng trong nông nghiệp: trong hệ thống canh tác công nghiệp của Ý (latifundia), có thể chủ yếu là nô lệ, nhưng trên khắp đế quốc, nô lệ lao động trong nông nghiệp có lẽ là ít quan trọng hơn so với các hình thức lao động phụ thuộc vào những người về cơ bản không phải là nô lệ.[285]

Dệt may và sản xuất trang phục là một nguồn việc làm chính. Vải và cả áo quần đã hoàn thành được giao dịch giữa các dân tộc của đế quốc mà có sản phẩm thường được đặt tên theo tên gọi của họ hay một thị trấn đặc biệt, giống như một "nhãn hiệu" thời trang.[286]

GDP

Các sử gia kinh tế có tính toán khác nhau về sản phẩm quốc nội của nền kinh tế La Mã.[287] Trong những năm 14, 100, và 150 CN , ước tính GDP bình quân đầu người khoảng từ 166 tới 380 HS. GDP bình quân đầu người của Ý được ước tính là cao hơn từ 40 [288] đến 66 phần trăm [289] so với phần còn lại của đế quốc, do thuyên chuyển thuế từ các tỉnh và sự tập trung thu nhập của tầng lớp có địa vị ở trung tâm của đế quốc. Ước tính vào năm 1 sau Công nguyên, GDP bình quân đầu người của Ý là khoảng 809 USD (tính theo thời giá năm 1990), gấp đôi Trung Quốc và Ấn Độ vào thời điểm đó [290].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_La_Mã http://www.britannica.com/eb/article-9008022/Apoll... http://classicsunveiled.com/romeh/ http://www.euratlas.com/history_europe/europe_map_... http://ngm.nationalgeographic.com/ http://peterturchin.com/PDF/Turchin_Adams_Hall_200... http://resourcesforhistory.com http://www.unrv.com/ http://cliojournal.wikispaces.com/How+the+Jesus+Cu... http://www.princeton.edu/~pswpc/pdfs/scheidel/0406... http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/...